1. Tương lai của tiền tệ: Cuộc cách mạng kỹ thuật số đang biến đổi tiền tệ và tài chính như thế nào. Tác giả: Eswar S. Prasad
Lược sử các Triển lãm Mỹ thuật Toàn quốc Việt Nam 1945- 2010
BBT: Cuối năm 2015, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch sẽ tổ chức Triển lãm Mỹ thuật Việt Nam 2015, đây là triển lãm định kỳ 5 năm một lần, hoạt động này nhằm công bố, phổ biến tác phẩm của giới mỹ thuật Việt Nam.
BBT: Cuối năm 2015, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch sẽ tổ chức Triển lãm Mỹ thuật Việt Nam 2015, đây là triển lãm định kỳ 5 năm một lần, hoạt động này nhằm công bố, phổ biến tác phẩm của giới mỹ thuật Việt Nam. Với mục đích tổng kết quá trình 5 năm sáng tạo nghệ thuật của giới mỹ thuật, ghi nhận thành tựu sáng tác của các họa sỹ, nhà điêu khắc Việt Nam. Đây là dịp tổng kết đánh giá thực trạng lực lượng, năng lực và trình độ chuyên môn của đội ngũ sáng tác hiện nay. Qua sự kiện này nhà nước và xã hội có cái nhìn toàn diện về sự phát triển của mỹ thuật Việt Nam trong 05 năm qua. Thông qua đó có chế độ, chính sách, giải pháp phù hợp để thúc đẩy mỹ thuật Việt Nam phát triển đúng hướng. Từ năm 1945 đến nay, do hoàn cảnh lịch sử có thời gian Triển lãm bị đứt đoạn, có giai đoạn Triển lãm được tổ chức đều đặn, mỗi lần triển lãm đều mang những đặc điểm, những thành tựu riêng đóng góp đáng kể vào lịch sử mỹ thuật Việt Nam hiện đại.Để bạn đọc có cái nhìn xuyên suốt về các kỳ Triển lãm, Tạp chí Mỹ thuật và Nhiếp ảnh sẽ trích in công trình nghiên cứu Lược sử các Triển lãm Mỹ thuật Toàn quốc Việt Nam 1945 - 2010 của họa sỹ Nguyễn Đức Hòa. Đây là công trình tác giả đã dành nhiều thời gian sưu tầm, nghiên cứu tư liệu. Năm 2010 những bài viết này đã được đăng trên Đặc san Nghiên cứu Mỹ thuật của Trường Đại học Mỹ thuật Việt Nam. Đến nay, sau một thời gian công bố, tác giả đã nhận được nhiều ý kiến đóng góp tích cực, bổ sung tư liệu từ các họa sỹ, nhà nghiên cứu... Loạt bài viết Lược sử các Triển lãm Mỹ thuật Toàn quốc Việt Nam 1945 - 2010 đăng tải trên Tạp chí Mỹ thuật và Nhiếp ảnh đã được tác giả bổ sung, chỉnh sửa và được rút ngắn cho phù hợp với dung lượng của tạp chí, loạt bài viết này sẽ được đăng tải đầy đủ trên website ape.gov.vn của Cục Mỹ thuật và Nhiếp ảnh. Tạp chí Mỹ thuật và Nhiếp ảnh rất mong nhận được những ý kiến phản hồi, trao đổi về nội dung này từ bạn đọc. Trân trọng cảm ơn.
70 năm đã qua kể từ khi có Triển lãm được coi là Mỹ thuật Toàn quốc lần Thứ Nhất, hầu hết các lão tiền bối lúc khai cuộc đã quy tiên, số hiếm hoi còn lại không đủ minh mẫn để tường thuật chính xác các sự kiện… Đồng thời phải kể đến hoàn cảnh chiến tranh dài 30 năm, hai miền chia cắt và muôn vàn vật đổi sao dời. Tác giả còn hy sinh, tranh còn thất lạc, huống hồ người viết là kẻ hậu sinh, góp nhặt chuyện xưa mà trình bày lại, tránh sao cho khỏi sai sót ! Tuy nhiên, với tinh thần “thà muộn còn hơn không”, xin phép mạnh dạn trình bày, kính mong các thày và các đồng nghiệp chỉ bảo để ngày càng hoàn thiện công việc mang tính lịch sử này. Xin trân trọng cảm ơn. Đầu tiên, xin phép cân nhắc các tiêu chí để giải quyết câu hỏi “Thế nào là một Triển lãm Mỹ thuật Toàn quốc Việt Nam ?”I.
Bác Hồ đến xem Triển lãm Văn hóa, tháng 9 năm 1945, tại Nhà Khai trí Tiến Đức
5 tiêu chí cơ bản của Triển lãm MTTQ VN1.
1.Triển lãm: phải trưng bày công khai cho đại chúng.
2. Mỹ thuật: theo quan điểm chính thống hiện thời (2015) ở VN gồm hội hoạ, đồ hoạ, điêu khắc, sắp đặt và trình diễn. Tuy nhiên, các triển lãm MTTQ từ 1948 đến 1976 đã từng có cả tranh tuyên truyền-cổ động, tranh truyện, tranh đả kích, đồ mỹ nghệ và ký họa. Riêng thể loại sắp đặt mới chính thức hiện diện từ MTTQ 2010 và trình diễn sẽ xuất hiện tại MTVN 2015.
3. Toàn quốc: tập hợp các họa sỹ và nhà điêu khắc khắp cả nước. Tiếc là các kỳ triển lãm từ 1948 đến 1962 chỉ gồm tác phẩm của các họa sỹ ở Việt Bắc và miền Bắc, cộng thêm các họa sỹ miền Nam tập kết. Chỉ từ 1976 đến nay mới xứng là toàn quốc.
4. Tổ chức bài bản ở quy mô quốc gia do một tổ chức có uy tín và quyền lực đứng ra tập hợp rộng rãi, có lời hiệu triệu, có quy chế, lập Ban Tổ chức và Hội đồng Nghệ thuật, trưng bày chuyên nghiệp, có tổ chức lễ Khai mạc, Bế mạc và trao giải.
5. Giải thưởng rất đáng được quan tâm. Không phải chỉ vì giá trị kinh tế, dù tiền rất quý, mà vì sự công nhận các giá trị mỹ thuật chọn lọc ở tầm quốc gia ! II. Lược sử các triển lãm MTTQ từ 1945 đến 19541.
Triển lãm MTTQ lần thứ nhất, 1945, vốn tên là “Triển lãm Văn hóa” - còn nhiều tranh cãi.
Trưng bày khoảng tháng 9/1945 tại Nhà Khai trí - Tiến Đức, Hà Nội (góc phố Hàng Trống - Lê Thái Tổ hiện nay). Đơn vị tổ chức: Đoàn Văn hóa Bắc bộ.Hiện có 2 quan điểm đối lập về triển lãm này. Quan điểm thứ nhất của Hội Mỹ thuật Việt Nam, xếp “Triển lãm Văn hoá” làm Triển lãm MTTQ lần thứ nhất (Danh mục các Triển lãm MTTQ 1945- 2005, sách “50 năm Hội Mỹ thuật Việt Nam 1957- 2007”, NXB Mỹ thuật- Hà Nội- 2007). Đồng thời, trong lời giới thiệu của 2 cuốn vựng tập Triển lãm MTTQ 1955 và 1958, Ban Tổ chức đều tính thứ tự các Triển lãm MTTQ kể từ ngay sau Cách mạng tháng 8 trở đi, với lần thứ nhất bao giờ cũng là Triển lãm Văn hoá 1945. Quan điểm thứ hai của lão họa sỹ Quang Phòng, người trong cuộc từ thuở ban đầu, chỉ nhắc đến triển lãm này như một triển lãm đặc biệt, đầu tiên sau ngày 2/9/1945. Ông coi triển lãm sau đó một năm, vào tháng 8/1946 mới là Triển lãm MTTQ lần thứ nhất. Tạp chí Mỹ thuật số 88, tháng 9/ 2003 có đăng bài “Phòng triển lãm Mỹ thuật tháng 8 năm 1946” của tác giả Trần Vân mà trong lời giới thiệu, toà soạn tạp chí cũng cho rằng đó mới là Triển lãm MTTQ lần thứ nhất. Rất tiếc tư liệu về triển lãm này chỉ còn quá ít. Chúng tôi thú thực chỉ biết tất cả có 17 dòng gồm 4 dòng vắn tắt trong sách “50 năm Hội MTVN” và 13 dòng hồi ức của họa sỹ Quang Phòng (Mỹ thuật Thủ đô Hà Nội thế kỷ 20, NXB Mỹ thuật - Hà Nội 2000). Theo ông, triển lãm này trưng bày 3 thể loại: sách báo cách mạng, hơn 100 bức tranh và một bộ tranh dân gian VN. Vẫn theo ông thì Bác Hồ đã đến xem triển lãm và góp ý: “Các chú vẽ nhiều thiếu nữ khoả thân, vẽ nhiều hoa, cái ấy cũng đẹp, nhưng đẹp trên cao, sao các chú không vẽ cái đẹp ở dưới đất chung quanh ta?”. Câu nói của lãnh tụ rất đáng suy ngẫm nếu lưu ý vào hoàn cảnh nước sôi lửa bỏng của nước Việt Nam DCCH khi mới ra đời. Triển lãm này không thỏa mãn các tiêu chí số 2- Mỹ thuật vì tên là Văn hóa và bày cả sách báo; cũng không đạt tiêu chí số 3- Toàn quốc vì tổ chức rất gấp nên chỉ có các họa sỹ thủ đô và lân cận tham gia; cũng chẳng đạt tiêu chí số 4- Tổ chức bài bản ở quy mô quốc gia vì đơn vị tổ chức chỉ là một đoàn thể của Bắc bộ; lại không thấy nói đến Giải thưởng (tiêu chí số 5). Như vậy, quan điểm của họa sỹ Quang Phòng có vẻ hợp lý hơn, tiếc rằng ông lại không xếp hạng đầy đủ các triển lãm MTTQ. Tuy nhiên, theo quan điểm chính thống, Cục Mỹ thuật và Hội Mỹ thuật VN đều gọi Triển lãm MTTQ 2010 là Triển lãm MTTQ thứ 17, tức là đặt “Triển lãm Văn hoá 1945” làm Triển lãm MTTQ lần Thứ Nhất để tính thứ tự các triển lãm MTTQ sau này. Vì lẽ đó, xin tạm theo căn cứ của Hội MT - nơi duy nhất xếp thứ tự các Triển lãm MTTQ - để trình bày lần lượt các Triển lãm này.
Tô Ngọc Vân, Bác Hồ làm việc tại Bắc Bộ phủ, 1946, sơn dầu. Tác phẩm tham dự Triển lãm Tháng Tám năm 1946 (tức MTTQ lần thức II)
2. Triển lãm MTTQ lần thứ hai, 1946, vốn tên là “Triển lãm tháng Tám”- đa số thừa nhận.
Khai mạc ngày 18/8/1946, bày khoảng một tháng tại Nhà hát lớn Hà Nội. Đơn vị tổ chức: Hội Văn hóa Cứu quốc Việt Nam. Triển lãm này thỏa mãn cả 5 tiêu chí: 1/ Triển lãm: trưng bày công khai cho toàn dân xem. Họa sỹ Nguyễn Văn Tỵ đã bình luận: “… phần đại chúng lần đầu ồ ạt kéo vào hưởng ứng những sáng tác mỹ thuật mà trước kia công việc tổ chức làm họ phải cách biệt. Ngày xưa không ai lôi kéo được nên đại chúng không dám lảng vảng tới phòng tranh, coi như một nơi trưng bày vật phẩm xa xỉ dành riêng cho những người sang trọng… họ xem tranh vui thích như đi xem hội…” (báo Tiền Phong, 2/9/1946). 2/ Mỹ thuật: triển lãm chỉ bày toàn tác phẩm mỹ thuật: gần 100 tranh tượng của 74 tác giả với các chất liệu: sơn dầu, sơn mài, lụa, bột màu, màu nước, mực nho, khắc gỗ, phấn màu, chì màu và tượng thạch cao. Đề tài khá phong phú: chân dung lãnh tụ, chiến tranh, cách mạng, lịch sử, phong tục, phong cảnh, tĩnh vật, khỏa thân… với các phong cách Hiện thực, Ấn tượng, Lãng mạn, Lập thể…3/ Toàn quốc: triển lãm đã bày tranh tượng của đa số tương đối các họa sỹ toàn quốc lúc bấy giờ, thậm chí có cả 5 Việt kiều cũng gửi tranh từ Pháp về (Lê Phổ, Lê Thị Lựu, Mai Trung Thứ, Vũ Cao Đàm, Trần Mạnh Tuyên). 4/ Tổ chức bài bản ở quy mô quốc gia: do Hội Văn hóa Cứu quốc VN- một hội tầm cỡ quốc gia đứng ra tổ chức; lời kêu gọi triển lãm được đăng trên báo Tiền phong - cơ quan ngôn luận của Hội VHCQVN từ ngày 16/4/1946, 2 lần họp trù bị để bầu Ban Tổ chức gồm 13 người, đăng báo thời hạn nhận tranh từ 5 đến 10/8/1946; hơn 80 tác giả đã gửi tranh tượng tham dự và gần 100 tác phẩm của 74 tác giả đã được duyệt. Đáng chú ý là báo Tiền Phong đã nhấn mạnh rằng đây là “cuộc trưng bày đầu tiên về Hội họa, Điêu khắc của nước Việt nam Dân chủ Cộng hòa… nơi hội họp các tinh hoa nghệ thuật Việt nam”. 5/ Giải thưởng: rất đa dạng với nhiều nguồn tài trợ, đặc biệt có cả giải của Chính phủ và Ban thường trực Quốc hội. Dù ít hay nhiều thì đó cũng là sự công nhận của quốc gia với các giá trị chọn lọc của mỹ thuật nước nhà. Theo bài báo của tác giả Trần Vân (tạp chí Mỹ thuật, tháng 9/2003): không có sự phân thứ hạng giải thưởng ở triển lãm này và thống kê chi tiết các mức tiền thưởng và tác giả được giải. Trên cơ sở ấy, người viết căn cứ vào mức tiền thưởng để tạm xếp giải (chỉ để cho bạn đọc dễ theo dõi vấn đề). Coi như Giải Nhất là 3000đ của Hội Văn hoá Cứu quốc trao cho tranh lụa của họa sỹ Nguyễn Tiến Chung. Coi như Giải Nhì là mức 1000đ x 6 giải gồm 3 giải của Chính phủ trao cho 3 tác giả Trần Văn Cẩn, Nguyễn Thị Kim, Hoàng Tích Chù, 1 giải của Văn hoá Cứu quốc trao cho họa sỹ Bùi Xuân Phái, 1 giải của Đoàn Báo chí VN trao cho họa sỹ Tạ Tỵ, 1 giải của báo Cứu Quốc trao cho họa sỹ Mai Văn Hiến. Coi như Giải Ba với mức 700đ x 5 giải là giải của Trường Cao đẳng Mỹ thuật trao cho họa sỹ Phạm Đăng Trí, 4 giải của Chính phủ trao cho các tác giả Phan Kế An, Tạ Thúc Bình, Trần Phúc Duyên, Nguyễn Đình Phúc. Coi như Giải Khuyến khích là mức 500đ x 5 giải gồm 1 giải của Ban Thường trực Quốc hội trao cho họa sỹ Quang Phòng, 1 giải của báo Tiền phong trao cho họa sỹ Dương Bích Liên, 1 giải của Liên đoàn xuất bản trao cho họa sỹ Trần Đình Thọ, 1 giải của Nhà in Lê Văn Tân trao cho họa sỹ Văn Giáo, 1 giải của ông T (?) trao cho họa sỹ Sỹ Ngọc. Coi như Tặng thưởng có 2 bộ sách quý của Viện Viễn Đông Bác cổ trao cho họa sỹ Phạm Văn Đôn.Một số tác phẩm đáng chú ý: 2 tranh sơn dầu trực họa Hồ Chủ tịch của 2 họa sỹ Tô Ngọc Vân và Nguyễn Đỗ Cung cùng với 1 tượng trực tạc lãnh tụ của nữ điêu khắc Nguyễn Thị Kim. Sơn mài Đêm hoa đăng của Tạ Tỵ. Sơn dầu Trời giông trên thành Thanh Hóa của Phan Kế An. Bột màu trên giấy dó Người suối Bạc của Phạm Đăng Trí…Cuối cùng là chuyện mất mát: ngoại trừ tượng Bác Hồ của bà Nguyễn Thị Kim (chôn xuống nền nhà suốt 9 năm kháng chiến) và tranh Người suối Bạc của Phạm Đăng Trí (mang về Huế) là còn đến ngày nay. Phần lớn các tranh- theo lời họa sỹ Phan Kế An khi người viết phỏng vấn ông tại nhà (30/12/2010 và 9/1/2011) - đem đóng hòm vội vã trước ngày 19/12/1946 rồi mang lên Cao Bằng gửi dân ở huyện Nguyên Bình. Cuối 1954 ông lên tìm cùng với công an huyện nhưng tất cả đã mất hết vì 2 lý do: quân Pháp càn qua năm 1947 đã cướp phá phần lớn, số còn lại bị mối xông hết sau 8 năm.
Tranh đả kích Bù nhìn Bảo Đại của Phan Kế An (một trong 7 bức được Giải Nhất Triển lãm Hội họa 1951 - bản in trên bìa báo Sự thật năm 1949)
Bìa trước và sau của tờ rơi Thể lệ Triển lãm và dự kiến Hội nghị Tranh luận về Hội họa năm 1951
3.Triển lãm MTTQ lần thứ ba, 1948, trong rừng sâu, trên chiến khu - vốn tên là “Triển lãm Chào mừng Đại hội Văn nghệ Việt Nam”.
Khai mạc ngày 18/7/1948 tại trường Đào Giã, Thanh Ba, Phú Thọ. Đây cũng là địa điểm tổ chức Đại hội Văn nghệ VN do thuận tiện vì sẵn các lớp học rộng rãi (dù tranh, tre, nứa, lá), nhiều bàn ghế, sẵn bếp tập thể và người phục vụ… Đơn vị tổ chức: báo Cứu quốc, thay mặt Hội Văn nghệ VN - được thành lập vào đúng dịp này để thay thế vai trò lịch sử của Hội Văn hóa Cứu quốc VN. Cũng từ đây, Hội VNVN thế vai của Hội VHCQ đứng ra tổ chức các kỳ triển lãm MTTQ 1948, 1951, 1954, 1955. Bối cảnh lịch sử: năm 1948 là thời khắc khó khăn của nước Việt Nam DCCH khi lực lượng kháng chiến đã rút hầu hết lên chiến khu Việt Bắc và khu 4, quân Pháp đang mở rộng vùng chiếm đóng ra khắp đồng bằng Bắc bộ. Trên trường quốc tế, nước ta bị các đế quốc bao vây hoàn toàn và chưa được bất cứ quốc gia nàocông nhận. Có hiểu như vậy mới thấy cuộc triển lãm mỹ thuật năm 1948 là một kỳ tích! Tổng số tác phẩm: 53 tranh, không có tượng và sơn mài (theo 1 bài báo của họa sỹ Trần Đình Thọ), chỉ có sơn dầu, lụa, bột màu, khắc gỗ, màu nước, mực nho, ký họa chì than… với các thể loại: hội họa, tranh cổ động- tuyên truyền, tranh đả kích. Giải thưởng: 01 giải Nhất cho tranh khắc gỗ màu Dân quân Phù Lưu của Nguyễn Tư Nghiêm (tác giả đã cách tân, bỏ hết nét viền, chỉ dùng mảng màu). 01 giải Nhì cho tranh bột màu Thiếu nhi đi khai hoang của Dương Bích Liên (hòa sắc dù xám lạnh nhưng lại mô tả thành công không khí tươi vui). 01 giải Ba cho tranh lụa (không rõ tên) vẽ cảnh bộ đội và dân gặt lúa ở miền núi của Mai Văn Hiến. Có lẽ triển lãm cũng có giải thưởng cho tranh tuyên truyền cổ động và đả kích, nhưng hiện chưa tìm được tài liệu.4. Triển lãm MTTQ lần thứ tư, lại một cố gắng lớn nữa trong rừng sâu với tên gốc là “Triển lãm Hội họa 1951”.
Khai mạc ngày 19/12/1951 tại Chiêm Hóa, gần ATK, tức An toàn khu, nơi đóng trụ sở đầu não của cuộc kháng chiến. Đơn vị tổ chức: Hội Văn nghệ Việt Nam. Bối cảnh lịch sử: năm 1951 triển vọng kháng chiến rất sáng sủa: chiến dịch Biên giới đại thắng, phá tan thế bao vây của Pháp. Nước Việt Nam DCCH đã được Liên Xô, Trung Quốc và các nước XHCN Đông Âu công nhận và viện trợ.Triển lãm treo khoảng 300 tranh (Dưới mái trường Mỹ thuật thời Kháng chiến, tác giả Ngô Mạnh Lân), riêng các học viên trường MTKC đã gửi tới 169 tranh, được bày 76 bức (25% phòng triển lãm). Chất liệu: sơn dầu, sơn mài, lụa, khắc gỗ, bột màu, màu nước, mực nho, ký hoạ chì…. Nữ họa sỹ Thục Phi từng dự lễ khai mạc cho biết: Phòng tranh là Hội trường lợp lá cọ, đa phần là tranh giấy nên chỉ cần kẹp que nứa, cài lên vách… Ban Vận động triển lãm gồm 5 người: Tô Ngọc Vân - Giám đốc Trường MTVN, Trần Văn Cẩn - Ủy viên thường vụ Hội VNVN, Nguyễn Xuân Sanh, nhà thơ - đại diện Hội VNVN, Dương Bích Liên, Nguyễn Sáng. Ban Tổ chức gồm Trưởng ban Trần Văn Cẩn, Phó ban Nguyễn Sáng, Thư ký Dương Bích Liên. Ngày 15/9/1951 là hạn cuối cùng thu tranh tại Trung ương. Các họa sỹ Phạm Văn Đôn, Nguyễn Văn Tỵ, Lương Xuân Nhị phụ trách thu nhận tranh từ khu 3 và 4 rồi đưa lên Việt Bắc trước ngày kể trên. họa sỹ Phan Kế An kể lại rằng ông đã tự cõng tranh (đả kích vẽ bằng sơn dầu) có cả khung lòng máng, xuyên rừng suốt 1 tuần lễ mới tới Chiêm Hóa.Giải thưởng: 01 giải Nhất cho 2 bộ tranh tứ bình: Đóng thuế nông nghiệp và Dồn làng- màu nước/giấy của Tạ Thúc Bình (10 vạn đồng). 01 giải Nhì cho 2 tranh: Thi đua học tập và Tất cả cho tiền tuyến- khắc gỗ của Lê Quốc Lộc (7 vạn đồng). 01 giải Ba cho tranh bột màu: Chống rét trâu bò của Lưu Công Nhân (5 vạn đồng). 01 giải Tập thể 5 vạn đồng cho trường Mỹ thuật Kháng chiến. 05 giải x 2 vạn đồng cho bộ tranh đả kích thực dân của Phan Kế An và cho các tác giả Nguyễn Sáng, Sỹ Ngọc, Phạm Văn Đôn, Nguyễn Thị Kim. Rất tiếc đa số tác phẩm đã hỏng và mất, trừ tranh đả kích của Phan Kế An hồi ấy từng đăng trên bìa báo Sự thật nên còn lưu được hình ảnh.
Tạ Tỵ, Đêm hoa đăng, sơn mài. Tác phẩm tham dự Triển lãm Tháng Tám năm 1946 (tức MTTQ lần thức II)
Trần Văn Cẩn, Bình dân học vụ, khắc gỗ, 1948
Phạm Đăng Trí, Người suối bạc, bột màu trên giấy dó, tác phẩm tham dự Triển lãm MTTQ 1946
5. Triển lãm MTTQ lần thứ năm, 1954 - lần đầu tiên mang tên chính thức là Triển lãm Mỹ thuật Toàn quốc.
Khai mạc khoảng cuối tháng 11/1954 tại Nhà hát Lớn Hà Nội và Câu lạc bộ Đoàn kết gần đó. Hồ Chủ tịch đã đến dự khai mạc. Đơn vị tổ chức: Hội Văn nghệ VN. Ban Tổ chức (cũng là Hội đồng Nghệ thuật) gồm 9 người: Trần Văn Cẩn (trưởng ban), Nguyễn Đỗ Cung, Nguyễn Tiến Chung, Huỳnh Văn Gấm, Mai Văn Hiến, Nguyễn Sỹ Ngọc, Lương Xuân Nhị, Huỳnh Văn Thuận, Nguyễn Văn Tỵ . Tổng số tác phẩm trưng bày: 518 tranh tượng của 152 tác giả. Cụ thể: 189 ký họa. 118 bột màu, 57 sơn dầu, 55 màu nước, 39 lụa, 14 cổ động, 9 điêu khắc, 7 sơn mài, 7 phấn màu, 6 giấy màu cắt dán, 6 tranh trục, 3 tranh giấy (?), 2 in đá, 4 bộ tranh truyện, 2 tranh đả kích. Các chủ đề: chiến đấu, sản xuất, học tập, hòa bình, tình quân dân, cảnh đẹp đất nước.Bối cảnh lịch sử: 7/5/1954 chiến thắng Điện Biên. 20/7/1954 Hiệp định Geneve được ký kết. 10/10/1954 Chính phủ Việt Nam DCCH tiếp quản thủ đô Hà Nội. Ngay cuối tháng 11/1954 đã có Triển lãm Mỹ thuật Toàn quốc. Vì thế, đây là lần đầu hoàn toàn xứng danh “Toàn quốc” vì có sự tham dự của hầu hết các vùng miền đất nước: Việt Bắc, Hà Nội, Khu III, Khu IV, Khu V, Nam Bộ (theo phân vùng trong Vựng tập).Giải thưởng (thống kê chưa đầy đủ): 01 giải Ngoại hạng trao cho “Toàn bộ tác phẩm” gồm 52 ký họa của danh họa - liệt sỹ Tô Ngọc Vân. Có thể có 02 giải Nhất cho “Toàn bộ tác phẩm” gồm 30 bột màu, màu nước, ký họa của họa sỹ Nguyễn Hiêm (từ Nam Bộ ra) và tranh bột màu “Gặp nhau” của Mai Văn Hiến. Có 03 giải Ba trao cho các tác giả Ngô Minh Cầu, Trịnh Phòng, Mai Long. Những tranh đáng chú ý khác của MTTQ 1954: Giặc đốt làng tôi- sơn dầu của Nguyễn Sáng, Được mùa- sơn dầu của Dương Bích Liên, Con đọc bầm nghe - lụa của Trần Văn Cẩn, Cảnh phố Hà Nội đêm giải phóng- bột màu của Lê Thanh Đức, Du kích tập bắn - bột màu của Nguyễn Đỗ Cung. Kể thêm về công tác chuẩn bị: Cuối tháng 10/1954, họa sỹ trẻ Ngô Mạnh Lân (20 tuổi, vừa học xong Khóa MT Kháng chiến) được 2 nhà văn Nguyễn Tuân và Nguyễn Huy Tưởng (lãnh đạo Hội VNVN) giao nhiệm vụ trở lại Việt Bắc để mang tranh về Hà Nội triển lãm. Được tạm cấp 1 chiếc xe đạp, họa sỹ trẻ phóng từ sáng tới tối thì đến Đại Từ, Thái Nguyên, cơ sở cũ của Hội Văn nghệ VN. Hồi ấy các họa sỹ thường được cử đi theo các chiến dịch quân sự hoặc đoàn tiếp quản và CCRĐ nên mỗi lần đi xa, họ đành gửi tranh lại cho Hội VNVN giữ. Hôm sau họa sỹ Ngô Mạnh Lân đèo 1 cuộn tranh to về, đồng thời chở luôn cả con gái nhà văn Nguyễn Huy Tưởng (khoảng 5 - 6 tuổi) về với bố ở thủ đô. Ước tính cuộn tranh này chiếm khoảng 1/4 - 1/5 tổng số tranh của triển lãm 1954.
Tài liệu tham khảo dùng cho đến phần 5 mục II :1. 50 năm Hội Mỹ thuật Việt Nam (1957- 2007), NXB Mỹ thuật- Hà Nội- 2007. Phụ lục số 13: Danh mục các Triển lãm Mỹ thuật Toàn quốc (1945-2005), trang 257.2. Mỹ thuật Thủ đô Hà Nội thế kỷ 20, NXB Mỹ thuật- Hà Nội- 2000, trang 79. Tác giả Quang Phòng.3. Mỹ thuật hiện đại Việt Nam, NXB Mỹ thuật- Hà Nội- 1996. Tác giả Quang Phòng- Trần Tuy. 4. Tạp chí Mỹ thuật số 88, tháng 9/ 2003. Bài báo “ Phòng triển lãm Mỹ thuật tháng 8 năm 1946”, tác giả Trần Vân, trang 44.5. Dưới mái trường Mỹ thuật thời Kháng chiến, NXB Mỹ thuật 2004, tác giả Ngô Mạnh Lân. 6. Thể lệ Triển lãm Hội hoạ 1951- bản in gốc- tư liệu của hoạ sỹ Ngô Mạnh Lân.7. Các tin và bài về Mỹ thuật trên tạp chí Văn nghệ, xuất bản trong kháng chiến chống Pháp tại Việt Bắc, sau in lại (từ 1998- 2006) trong bộ 7 tập SƯU TẬP VĂN NGHỆ, NXB Hội nhà Văn.8. Hỏi chuyện các lão họa sỹ Phan Kế An, Trịnh Phòng, Ngô Mạnh Lân, Thục Phi
(Bài đăng trên Tạp chí Mỹ thuật Nhiếp ảnh số tháng 4/2015)
(màu hồng) trong tứ trấn Thăng Long
Sơn Tây là một tỉnh cũ ở đồng bằng Bắc Bộ, Việt Nam.
Sơn Tây là một trong số 13 tỉnh được thành lập sớm nhất ở Bắc Kỳ (năm 1831), dưới thời vua Minh Mạng), gồm phần lớn địa bàn các tỉnh Vĩnh Phúc, phía bắc tỉnh Phú Thọ, một phần tỉnh Tuyên Quang và tây bắc thành phố Hà Nội ngày nay. Vốn trước đó là trấn Sơn Tây (chữ Hán: 山西), tục gọi là trấn Tây hay trấn Đoài (Đoài nghĩa là Tây). Tỉnh lị là thị xã Sơn Tây. Tỉnh Sơn Tây thường được gọi là xứ Đoài.
Bản đồ tỉnh Sơn Tây thời Pháp thuộc (năm 1924).
Sơn Tây là vùng đất cổ, có lịch sử lâu đời “Thuở trước công nguyên, Sơn Tây - Xứ Đoài là ĐẤT TỔ, vì đấy là vùng thềm phù sa cổ, vùng thượng châu thổ của tam giác châu sông Nhị - Thái Bình”, với nhiều di chỉ khảo cổ học thời tiền sử, sơ sử, đồng thời là nơi chứng kiến sự xuất hiện nhà nước đầu tiên - Nhà nước Văn Lang, Âu Lạc; được minh chứng qua các di tích “Ở đồi Vạn Thắng, Cổ Đô (tổng Thanh Mai cũ) và ở ngay các gò Mông Phu (Mông Phụ - Mía) đã tìm thấy các di vật cuội đẽo thuộc văn hóa đá cũ Sơn Vi tuổi đã xấp xỉ 2 vạn năm”,… “Ở Sơn Tây đã có hàng chục di chỉ cư trú sơ kỳ đồng thau (xấp xỉ 4000-3500 năm cách ngày nay): Điển hình là các di chỉ ở Hoàng Xá. Ở chân núi Phượng Hoàng cạnh núi Sài Sơn, ở Gò Mả Đống- Ba Vì”, nhiều ý kiến cho rằng “Bậc thềm Sơn Tây - Ba Vì là linh địa của trung tâm đất Mê Linh thời cổ, nay là vùng Cổ Đông chân núi Tản Viên…là vùng đất có bề dày lịch sử, gắn liền với tiến trình dựng nước và giữ nước của dân tộc”.
Ngược dòng lịch sử ngành khảo cổ học đã cho niên đại của vùng đất này có con người sinh sống cách nay hàng vạn năm, những di tích, nền văn hóa khảo cổ cũng chứng minh nơi đây từ xa xưa là địa bàn cư trú của người Việt cổ, nền văn hóa Đông Sơn bao trùm một phạm vi rộng lớn trên dải đất cổ của Sơn Tây, và đây là nền văn hóa bản địa, là cơ sở cho sự ra đời của nhà nước. Đây là cương vực của quốc gia Văn Lang, là khu vực gần sát địa bàn mà Hùng Vương đã chọn dải đất Phong Châu để làm kinh đô thời lập nước.
Tên gọi “Sơn Tây” xuất hiện trên sử sách đã hơn 500 năm. Năm Quang Thuận thứ 10 (1469), vua Lê Thánh Tông thấy nơi này có mấy ngọn núi và ở phía Tây thành Thăng Long mới đặt là Sơn Tây thừa tuyên.
Qua từng thời kỳ, vùng đất cổ Sơn Tây có những thay đổi về cương vực đơn vị hành chính, có khi là một vùng đất rộng lớn hơn sau này, có lúc thì tách nhập đổi tên vào một quận, huyện dưới thời Bắc thuộc, về đại để sách sử chép lại vùng đất này như sau: “Đất đai Sơn Tây, xưa gọi là Phong Châu, thời Hùng Vương định đô ở đấy, “Theo Nam sử, địa phận Sơn Tây ngày nay, vốn thủa xưa thuộc đất Phong Châu, tức là kinh đô của 18 đời Hùng Vương”, dựng quốc hiệu Văn Lang, chia trong nước làm 15 bộ, Phong Châu, Phúc Lộc, Chu Diên tức là đất Sơn Tây nay. Đời Tần Thuỷ Hoàng, quận huyện đất ấy đặt làm Tượng Quận, kéo dài đến tận phía Nam Quế Lâm. Vào thời Tần là đất Lục Lương, thời thuộc Hán gọi là Mê Linh, cho lệ vào bộ Giao Chỉ (quận Giao Chỉ). Thời Ngô chia đặt bộ Tân Hưng, nhà Tấn đổi làm bộ Tân Xương. Thời Tống, Tề, Lương đều theo tên như đời Tấn, đời Tuỳ gọi là Gia Ninh, đều cho nhập vào quận Giao Chỉ. Đời Đường lại gọi là Phong Châu, thuộc An Nam đô hộ phủ thì đất Lục Lương, Mê Linh, Chu Diên, Tân Hưng, Tân Xương, Gia Ninh hay Phong Châu đều là đất Sơn Tây vậy. Thời Sứ quân Nguyễn Khoan1 gọi là đất Tam Đái triều Đinh cùng nhà Tiền Lê thay đổi không thống nhất. Đến triều Lý gọi là châu Quốc Oai, lại gọi là châu Quảng Oai, đời Trần là trấn Quảng Oai, cũng gọi là lộ Tam Giang” (Sơn Tây quận huyện bị khảo).
Thời Hồ, về cơ bản các đơn vị hành chính không khác nhiều so với thời Trần. Năm 1397, Hồ Quý Ly đổi gọi các phủ, lộ là trấn và đặt thêm chức quan ở đó, bãi bỏ chức Đại tiểu tư xã, chỉ để quản giáp như cũ. Hồ Quý Ly ép vua Trần dời đô về Thanh Hóa, và gọi là Tây Đô. Phủ, lộ là cấp hành chính địa phương cao nhất của nước Đại Ngu, một số được đổi thành trấn từ cuối thời Trần. Cả nước có 24 đơn vị hành chính, Sơn Tây thuộc trấn Quảng Oai.
Đến thời Lê Sơ, năm 1428 vua Lê Thái Tổ chia nước ra làm 5 đạo, vùng Sơn Tây bây giờ gọi là đạo Tây và gồm có “Quốc Oai Thượng, Quốc Oai Trung và Quốc Oai Hạ”. Nhưng đây là cách phân chia đơn vị hành chính ở thời kỳ đất nước sau khi độc lập, hay còn được gọi là thời kỳ “quá độ”2 , những đại thần cai quản các đạo này (quan Hành khiển) có quyền rất lớn, do vậy mà quyền lực không thể tập trung cao độ vào tay vua (hoàng đế), sau này thì Lê Thánh Tông đã tiến hành sắp xếp lại cho chặt chẽ hơn, thâu tóm quyền lực vào tay vua3 .
Diên cách vùng đất Sơn Tây qua các triều đại phong kiến
Theo sách Sơn tây dư đồ và sách Sơn Tây thành trì tỉnh Vĩnh Yên hạt sự tích (Sơn Tây sự tích) thì thành cũ vốn được xây dựng từ thời Lê Sơ “thuộc địa phận xã La Thẩm, huyện Tiên Phong. Thành được xây dựng từ năm tháng nào thì không có mấy ai được rõ, mãi về sau ta vẫn thấy vết tích của nó còn lưu lại là một con đường nhỏ, chạy từ chân đê tới bờ sông”. Trong bộ Lịch triều hiến chương loại chí sử gia Phan Huy Chú cũng cho biết thêm “Đất La Phẩm ở huyện Tiên Phong là trấn sở của triều cũ. Trong đời Cảnh Hưng mới dời đến xã Cam Giá, huyện Phúc Lộc”.
Nhà Sử học triều Nguyễn là Đặng Xuân Bảng trong sách Việt sử cương mục tiết yếu (quyển IV, kỷ nhà Lê - Thánh tông Thuần hoàng đế), chép về việc chia đặt các đơn vị hành chính địa phương: “Hồi quốc sơ, chia làm 5 đạo4 . Đến đây chia làm 12 đạo. Đó là các đạo: Thanh Hóa, Nghệ An, Thuận Hóa (nay là Thừa Thiên và Quảng Trị), Thiên Trường (nay là các tỉnh Hà Nội, Hưng Yên, Nam Định), Nam Sách (nay là Hải Dương), Quốc Oai (nay là Sơn Tây)…”. Cũng trong sách này có đoạn nói về việc đổi Quốc Oai thành Sơn Tây có 6 phủ 24 huyện “Phủ Quốc Oai có 6 huyện là Từ Liêm, Phúc Lộc, Yên Sơn, Thạch Thất và Đan Phượng. Phúc Lộc nay là Phúc Thọ…Phủ Quảng Oai có 2 huyện là Mỹ Lương và Minh Nghĩa. Minh Nghĩa nay là Tùng Thiện”5 .
Sử gia Lê Quý Đôn trong phần nói về Phong vực (bờ cõi) đã dành nhiều trang viết về Sơn Tây, đó là những ghi chép khá phong phú, có thể coi là sớm nhất về vùng đất này. Về hành chính “Khoảng niên hiệu Hồng Đức, trấn Sơn Tây gọi là xứ Tam Giang, sau mới đổi tên này”6 . Năm Quang Thuận thứ 7 (1466) đổi làm thừa tuyên Quốc Oai, Ngô Sĩ Liên và các sử thần triều Lê đã chép “Đặt 13 đạo thừa tuyên: Thanh Hóa, Nghệ An, Thuận Hóa, Thiên Trường, Nam Sách, Quốc Oai, Bắc Giang, An Bang, Hưng Hóa, Tuyên Quang, Thái Nguyên, Lạng Sơn và phủ Trung Đô”.
Năm Kỷ Sửu (1469), Quang Thuận năm thứ 10, sách Đại Việt sử ký toàn thư chép về việc thành lập thừa tuyên Sơn Tây, như sau: “Mùa hạ, tháng tư…Quy định bản đồ của phủ, châu, huyện, xã, trang sách thuộc 12 thừa tuyên…Sơn Tây 6 phủ 24 huyện”7 . Năm Quang Thuận 10 (1469) “đổi đặt 13 đạo thừa tuyên thì gọi là đạo Quốc Oai, đặt các chức Chuyển vận chánh, phó sứ cùng là Tuần kiểm thuộc bản đạo Thừa tuyên. Năm Hồng Đức (1470-1497) đặt 12 Thừa tuyên, vẽ bản đồ, lại gọi là đạo Sơn Tây. Dưới đạo chia đặt phủ, huyện, đổi chức Chuyển vận chánh sứ làm Tri phủ, Phó sứ làm tri huyện, Tuần kiểm làm Huyện Thừa”8 .
Năm Canh Tuất (1490), niên hiệu Hồng Đức năm thứ 21 vua Lê Thánh Tông cho người đo đạc lập địa đồ của nước Đại Việt “Mùa hạ, tháng 4, ngày 4, xác định bản đồ toàn quốc: 13 xứ thừa tuyên, 52 phủ, 178 huyện, 50 châu, 20 hương, 36 phường, 6851 xã, 322 thôn, 637 trang, 40 sách, 40 động, 30 nguồn, 30 trường”. Bộ Hồng Đức bản đồ9 vẫn còn được truyền lại tới ngày hôm nay, đây là một tư liệu rất quý về địa hình sông núi của nước ta, nhất là về hành chính của các trấn, thừa tuyên, trong cả nước. Cũng năm này, lại đổi gọi các đơn vị hành chính địa phương thành xứ thừa tuyên, đó là các xứ thừa tuyên “Sơn Nam, Sơn Tây, Kinh Bắc, Hải Dương, Thái Nguyên, Hưng Hóa, Lạng Sơn, An Bang, Thanh Hóa, Nghệ An, Thuận Hóa, Quảng Nam và phủ Trung Đô”10 …
Khi thành lập tỉnh Sơn Tây có 5 phủ:
Cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20, sau khi đánh chiếm và đô hộ Bắc Kỳ, chính quyền thực dân Pháp thực thi chính sách chia để trị, tỉnh Sơn Tây đã bị cắt phần lớn đất đai để lập mới các tỉnh Hưng Hóa, Vĩnh Yên, Phù Lỗ, Hòa Bình.
Ngày 22 tháng 7 năm 1886, tách các vùng người Mường cư trú để lập tỉnh Mường (tức tỉnh Hòa Bình sau này). Có một khoảng thời gian tỉnh lị tỉnh Mường đặt ở xã Phương Lâm, vốn thuộc huyện Bất Bạt, phủ Quốc Oai.
Ngày 18 tháng 4 năm 1888, thống sứ Bắc Kỳ ra nghị định tách phủ Đoan Hùng (lúc đó gồm 3 huyện Hùng Quan, Ngọc Quan và Sơn Dương) khỏi tỉnh Sơn Tây để nhập vào tỉnh Tuyên Quang. Tỉnh Sơn Tây sau đó còn 4 phủ: phủ Quốc Oai (gồm 2 huyện Thạch Thất và Yên Sơn), phủ Quảng Oai (gồm 4 huyện Bất Bạt, Phúc Thọ, Tiên Phong, Tùng Thiện), phủ Vĩnh Tường (gồm 5 huyện Bạch Hạc, Lập Thạch, Yên Lạc, Yên Lãng và Tam Dương), phủ Lâm Thao (gồm 5 huyện Cẩm Khê, Hạ Hòa, Phù Ninh, Sơn Vi, Thanh Ba).
Ngày 20 tháng 10 năm 1890, tách toàn bộ phủ Vĩnh Tường, cùng với huyện Bình Xuyên của tỉnh Thái Nguyên lập đạo Vĩnh Yên. Nhưng đến 12/4/1891 lại bãi bỏ đạo Vĩnh Yên, nhập vào tỉnh Sơn Tây. Như vậy tỉnh Sơn Tây có thêm huyện Bình Xuyên. Đến ngày 29/12/1899 lại tách đạo Vĩnh Yên (gồm cả huyện Bình Xuyên) ra để lập tỉnh Vĩnh Yên.
Phủ Lâm Thao cũng được tách khỏi tỉnh Sơn Tây. Sau khi tỉnh Hưng Hóa được tách đất để lập mới các quân khu, tiểu quân khu, khu quân sự Lào Cai, Yên Bái, Vạn Bú... chỉ còn lại 2 huyện Tam Nông và Thanh Thuỷ, ngày 8/9/1891 3 huyện Phù Ninh, Sơn Vi, Thanh Ba của phủ Lâm Thao được tách khỏi tỉnh Sơn Tây, kết hợp với 2 huyện còn lại của tỉnh Hưng Hoá để thành lập tỉnh Hưng Hóa mới; 2 huyện Cẩm Khê và Hạ Hoà được tách khỏi phủ Lâm Thao, tỉnh Sơn Tây để nhập vào Tiểu quân khu Yên Bái. Ngày 9 tháng 12 năm 1892, huyện Cẩm Khê lại được tách khỏi tiểu quân khu Yên Bái để nhập về tỉnh Hưng Hoá mới; ngày 5/6/1893 huyện Hạ Hòa cũng được tách khỏi tiểu quân khu Yên Bái để vào nhập vào tỉnh Hưng Hóa mới. Như vậy, từ tháng 9 năm 1891 đến tháng 6 năm 1893, toàn bộ phủ Lâm Thao gồm 5 huyện đều được điều chuyển về tỉnh Hưng Hóa mới. Từ năm 1903 tỉnh Hưng Hóa mới đổi tên là tỉnh Phú Thọ.
Sau khi đã tách đất cho các tỉnh Phú Thọ và Vĩnh Phúc ngày nay, ranh giới phía tây, phía bắc và phía đông của tỉnh Sơn Tây là sông Đà, sông Hồng và sông Đáy.
Từ khi thành lập nước Việt Nam dân chủ cộng hoà, Sơn Tây vẫn là 1 tỉnh gồm có 6 huyện: Bất Bạt,Quảng Oai,Tùng Thiện,Phúc Thọ, Thạch Thất, Quốc Oai và trụ sở tỉnh lỵ là thị xã Sơn Tây.
Ngày 1 tháng 7 năm 1965 tỉnh Sơn Tây nhập với tỉnh Hà Đông thành tỉnh Hà Tây. Địa danh "tỉnh Sơn Tây" từ đó mất hẳn trên các văn bản chính thức. Sau đó, vào ngày 27 tháng 12 năm 1975 tỉnh Hà Tây nhập với tỉnh Hòa Bình thành tỉnh Hà Sơn Bình.
Năm 1978, tỉnh Sơn Tây cũ (trừ huyện Quốc Oai) tách khỏi tỉnh Hà Sơn Bình và nhập vào thành phố Hà Nội; từ 1991 nhập trở lại tỉnh Hà Tây. Từ 1/8/2008 Quốc hội nước Cộng hoà XHCN Việt Nam quyết định nhập Sơn Tây cùng toàn bộ tỉnh Hà Tây vào Hà Nội.