II/ ẨM THỰC TRUNG HOA 1 Giới thiệu ẩm thực Trung Hoa
Ảnh hưởng đối với triết học.
Bản thân triết học của Phật Học ẩn chứa những tri thức rất sâu xa, có những kiến giải sâu sắc độc đáo trong quan sát đời sống con người, đưa ra sự phản tỉnh có lý trí về loài người và phân tích các khái niệm.
Triết học cổ đại Trung Quốc có sự kết mối duyên bền vững với Phật Giáo. Huyền Học ở thời kỳ Ngụy Tấn Nam Bắc Triều trước tiên làm môi giới truyền bá Bát Nhã Học của Phật Giáo, sau đó giao tiếp hòa hợp với Bát Nhã Học, cuối cùng bị Bát Nhã Học thay thế. Trong hai đời Tùy-Đường, tuy Nho, Thích, Đạo đều cùng phát triển nhưng nói cho đến cùng, Phật Giáo là trào lưu tư tưởng lớn mạnh nhất. Thời kỳ cuối Đường, đầu Tống, chỉ có Thiền Tông thịnh hành nhất, chi phối giới tư tưởng. Lý Học Tống Minh trên phương thức cấu tạo Bản Thể Luận “Lý nhất phân thù”, phương thức tu hành “Minh tâm kiến tính”rõ ràng đều hấp thu thành quả tư duy của Phật Giáo.
Ngay trong triết học Trung Quốc cận đại, Phật học cũng chiếm địa vị khá quan trọng. Triết học cận đại Trung Quốc bắt đầu từ phái Cải lương (phái Duy tân) của giai cấp tư sản. Lương Khải Siêu từng nói “Các nhà Tân Học cuối đời Thanh hầu như chẳng ai không có quan hệ với Phật Học” (xem: “Thanh đại học thuật khái luận”). Khang Hữu Vi, Lương Khải Siêu và Đàm Tự Đồng là những người như vậy. Có thể nói ai không hiểu triết học Phật Giáo thì rất khó hiểu được hình thái cụ thể của triết học Trung Quốc sau Ngụy Tấn. Dĩ nhiên Phật Giáo là hệ tôn giáo duy tâm nhưng Phật Giáo dùng các thủ pháp phân tích cảm giác, khái niệm, thuộc tính vật chất để luận chứng quan điểm duy tâm của mình, chứa đựng không ít nội dung tinh vi, tư biện, rất nhiều phương pháp phân tích logic và quan điểm biện chứng. Tất cả đã làm cho triết học cổ đại Trung Quốc thêm sâu sắc và phong phú. Ngoài ra thuyết vô thần duy vật của Trung Quốc cổ đại bao giờ cũng phát triển trong cuộc đấu tranh với thuyết hữu thần duy tâm. Về mặt này, Phật Giáo đúng là đã có tác dụng như một giáo trình phản diện.
Hiện nay, sự ảnh hưởng của văn hóa trung quốc đến Việt Nam vẫn còn rất to lớn, và nó sẽ còn tồn tại mãi mãi trong đời sống và xã hội. Sự ảnh hưởng này bao gồm cả 2 yếu tố là tích cực và tiêu cực. Dù sao nó cũng đóng góp một phần xây dựng cho nền văn hóa, lịch sử và nghệ thuật kiến trúc nước ta. Làm cho văn minh của Việt Nam có thể đóng góp những phần nhỏ vào văn minh thế giới.
Top 15 Nhà Sư Việt Nam Nổi Tiếng Được Tìm Kiếm Nhiều Nhất Hiện nay
Những ảnh hưởng về hội họa, kiến trúc, điêu khắc.
Trung Quốc vốn nổi tiếng với nhiều công trình kiến trúc nổi tiếng thế giới như Vạn Lý trường thành, các lăng tẩm của vua chúa, cung điện,.. Hội hoạ Trung Quốc có lịch sử 5000 – 6000 năm với các loại hình: bạch hoạ, bản hoạ, bích hoạ. Đặc biệt là nghệ thuật vẽ tranh thuỷ mặc, có ảnh hưởng nhiều tới các nước ở Châu Á. Cuốn Lục pháp luận của Tạ Hách đã tổng kết những kinh nghiệm hội hoạ từ đời Hán đến đời Tuỳ. Điêu khắc nổi tiếng với những pho tượng Phật… Có thể nói nghệ thuật kiến trúc, hội họa, điêu khắc của Trung Quốc phong phú, đặc sắc là vậy nên khó tránh khỏi tầm ảnh hưởng sâu rộng đến các quốc gia khác trong đó có Việt Nam.
Khi du nhập vào Việt Nam, các hình thức nghệ thuật này không chỉ là sự kế thừa mà nó còn là sự phát triển, giao thoa cùng với đặc trưng nghệ thuật của chính người Việt, từ đó tạo nên những thành tựu độc đáo như:
Những ảnh hưởng về tư tưởng tôn giáo.
Trung Quốc có rất nhiều những giáo lý và tư tưởng nổi tiếng. Rất nhiều trong số đó đã ảnh hưởng sâu sắc đến Việt Nam như Phật giáo (Bắc Tông), các hệ tư tưởng như Nho giáo, Đạo giáo hay các tư tưởng về quản lý,… từ xa xưa. Và cho đến ngày nay những điều này vẫn còn ý nghĩa quan trọng trong các hoạt động học tập, nghiên cứu hay quản lý nhà nước.
Một trong số những ảnh hưởng sâu sắc nhất phải kể đến đầu tiên đó chính là Nho giáo. Nho giáo ra đời ở Trung Hoa, được biết tới là tư tưởng do Khổng Tử sáng lập. Nho giáo du nhập vào Việt Nam kể từ thời Bắc thuộc nhưng chỉ được thừa nhận một cách chính thức từ khi Nhà Lý cho xây dựng công trình Văn Miếu thờ Khổng Tử. Thời Lê là mốc đánh dấu sự ảnh hưởng sâu rộng của Nho giáo khi tư tưởng này phổ biến ở giai cấp thống trị và tầng lớp trí thức trong xã hội bấy giờ.
Y học cổ truyền Việt Nam hay ta vẫn thường gọi với cái tên “Đông y” được coi là một nhánh phát triển của y học Trung Hoa đã có niên đại hình thành hơn 3500 năm.
Tương tự như y học căn bản Trung Quốc, Đông y cũng hội tụ đủ yếu tố, hình thức trong điều trị như: Sự đa dạng của các loại thảo mộc, trị liệu bằng xoa bóp, cạo gió, châm cứu, bấm huyệt, vận khí công, nắn xương hay liệu pháp dinh dưỡng…
Nền y học Đông y phát triển gần như là song song với văn hóa của các nước Đông Á và nó đã được ứng dụng rộng rãi, phổ biến trong đời sống, nhờ đó mà ta thấy đây là một kho tàng phong phú tri thức về y học với lịch sử lâu dài. Đi sâu vào nghiên cứu thì có thể thấy cơ sở lý luận của Đông y được khởi nguồn từ quan niệm vũ trụ được chia làm hai phần, tượng trưng cho hai thái cực âm – dương và thuyết ngũ hành. Trong đó, cuốn “Hoàng đế nội kinh” và “Thương hàn luận” của Trương Trọng Cảnh được xem là “cái nôi” của những học thuyết của y học căn bản trong y học Trung Hoa.
Theo lý luận y học cổ truyền, sức khỏe là kết quả của sự tương tác giao thoa giữa những thực thể (cơ quan trong cơ thể) và các yếu tố bên ngoài cơ thể, kết hợp với sự tác động của những yếu tố gây bệnh tật. Do đó, chẩn đoán bệnh trong Đông y không chỉ là dựa trên những triệu chứng của cơ thể người bệnh thể hiện qua mạch đập, lưỡi, da, mắt… mà còn là xem xét các yếu tố như thói quen ăn uống, ngủ nghỉ và môi trường xung quanh người đó như thế nào.
Vấn đề điều trị trong Đông y không chỉ là uống thuốc gì mà còn là những phương pháp không dùng thuốc như châm cứu, xoa bóp, bấm huyệt, giác hơi… Trong đó, châm cứu được xem là tinh hoa vật lý trị liệu với niên đại hình thành từ rất lâu đời.
Châm cứu là liệu pháp tác động vào hệ thống kinh mạch vô cùng phức tạp trên cơ thể con người với hàng trăm huyệt vị khác nhau. Đông y cho rằng các huyệt vị và các đường kinh mạch có sự liên hệ, tác động mật thiết đến cơ quan tạng phủ trong cơ thể. Do đó, khi một cơ quan tạng phủ bị rối loạn thì có thể tác động vào các huyệt vị tương ứng trên cơ thể để điều trị.
Có một điều đặc biệt là hệ thống huyệt vị, kinh mạch trong cơ thể chỉ có thể được mô tả chi tiết qua phương pháp châm cứu trong Đông y. Điều này không thể thực hiện lại được trong giải phẫu sinh lý hiện đại hoặc nền tảng của Tây y.
Nhắc đến Đông y không thể không nhắc đến kho tàng thuốc Bắc đồ sộ. Đây là những vị thuốc có trong tự nhiên được khai thác và bào chế theo phương pháp y học Trung Hoa nhưng đã được cải tiến thêm bởi những thầy thuốc người Việt sao cho hợp đặc trưng khí hậu, văn hóa Việt Nam. Thuốc Nam được phân biệt với thuốc Bắc ở chỗ thuốc Nam là vị thuốc được khám phá trên chính lãnh thổ Việt Nam và được các thầy thuốc trong nước tìm tòi, khám phá ra. Tại Việt Nam phải kể đến những vị danh y được xem là tổ nghề như Danh y Tuệ Tĩnh, Thần y Lê Hữu Trác…
Sự ảnh hưởng về mặt giáo dục của văn hóa Trung Hoa có mối liên quan mật thiết với sự ảnh hưởng của tư tưởng Nho giáo và Đạo giáo ở Việt Nam. Điều này được thể hiện rất rõ trong chế độ khoa cử và sự phát triển của tầng lớp nho sĩ trong xã hội.
Theo đó, để xây dựng một thiết chế quân chủ tập quyền theo mô hình Đông Á Trung Hoa, cũng như những nguyên lý cơ bản của phép trị nước thì tầng lớp thống trị đã biến Nho giáo thành một nhu cầu tư tưởng thiết yếu mà giải pháp được xem là chiến lược nhất là đánh vào chế độ khoa cử.
Theo các ghi chép lịch sử, ở thời Trần, chế độ khoa cử được tổi chức một cách rất quy củ với tất cả 14 khoa thi (10 khoa chính thức và 4 khoa phụ), lấy đỗ 282 người đại khoa, có học vị Thái học sinh. Năm 1374, có tổ chức thi Đình cho các tiến sĩ. 3 người đỗ đầu được gọi là Tam khôi: Trạng nguyên, Bảng nhãn, Thám hoa. (Sau đặt thêm một học vị cấp cao nữa là Hoàng giáp).
Từ các cuộc thi và ảnh hưởng của nó mà tầng lớp nho sĩ trong xã hội Việt Nam cũng ngày một phát triển. Nổi bật trong số đó phải kể đến những nhân tài của đất nước như: Lê Văn Hưu, Đoàn Nhữ Hài, Nguyễn Trung Ngạn, Trương Hán Siêu, Mạc Đĩnh Chi, Chu Văn An…
“Thuận theo thời cuộc”, tầm ảnh hưởng của Nho giáo trong đời sống đã kéo theo nhu cầu học “chữ nho” hay ngoại ngữ chính là tiếng Trung Quốc bên cạnh việc học chữ Quốc ngữ trong các trường học nước ta thời bấy giờ.